Phá thế “Một cổ hai tròng”

Chỉ trong thời gian ngắn sau khi Thường vụ Xứ ủy Nam kỳ ra Đề cương về cách mạng Nam kỳ (3-1940), công tác chuẩn bị khởi nghĩa được triển khai khẩn trương, đặc biệt là ở vùng nông thôn.

Theo dòng lịch sử, vào tháng 9-1939, chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Vào tháng 6-1940, Pháp đầu hàng phát xít Đức, và Nhật Bản lợi dụng cơ hội này để xâm chiếm Đông Dương. Tình hình trở nên nguy hiểm khi dân tộc ta lâm vào tình thế “một cổ hai tròng”. Trong tháng 11-1940, quân phiệt Thái Lan theo lệnh phát xít Nhật tiến công Campuchia, và thực dân Pháp bắt lính Nam bộ ra trận làm bia đỡ đạn cho chúng. Trong bối cảnh căm thù thực dân Pháp và cổ vũ bởi tiếng súng khởi nghĩa Bắc Sơn, nhân dân Nam bộ nổi lên và tranh đấu.

Dựa vào tình hình trong và ngoài nước từ cuối những năm 1930 đầu năm 1940, Đảng ta đã điều chỉnh chiến lược chỉ đạo cách mạng. Trong bối cảnh chủ nghĩa phát xít trở nên đe dọa toàn cầu, thực dân Pháp áp bức và bóc lột nhân dân ta đạt đến mức cao nhất, mâu thuẫn giữa các tầng lớp nhân dân và thực dân Pháp ngày càng căng thẳng. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 7 (khóa I) vào tháng 11-1939 tại Bà Điểm (Hóc Môn, Gia Định) đã đánh giá: Nhật sẽ xâm chiếm Đông Dương và Pháp sẽ đầu hàng Nhật, cách mạng ở Đông Dương sẽ nổ ra. Do đó, cần đoàn kết thực hiện nhiệm vụ đánh đổ đế quốc, giải phóng dân tộc; thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương, đoàn kết rộng rãi các tầng lớp, giai cấp, dân tộc và các cá nhân yêu nước.

Trong tháng 3-1940, Ban Thường vụ Xứ ủy Nam kỳ do đồng chí Võ Văn Tần làm Bí thư, đề xuất đề cương chuẩn bị khởi nghĩa. Từ tháng 7 đến tháng 10-1940, Đảng bộ Nam kỳ tổ chức nhiều cuộc họp để thảo luận và lãnh đạo nhân dân chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang. Cùng với đó là việc thành lập Ban Chỉ huy và Ban Quân sự các cấp, xác định hình thức chính quyền, quốc kỳ, khẩu hiệu, và chính sách đối với nhân dân.

Tinh thần nghị quyết đã lan tỏa trong các đảng viên và quần chúng. Phong trào cách mạng ở Nam kỳ ngày càng phát triển mạnh mẽ, với nhiều cuộc mít tinh, biểu tình, và đấu tranh diễn ra liên tục. Đặc biệt, cuộc đấu tranh chống bắt lính trở nên mạnh mẽ khi thực dân Pháp bắt thêm lính Việt Nam để đi chiến đấu ở biên giới Ai Lao (Lào) – Cao Miên (Campuchia) chống lại Xiêm (Thái Lan). Cuộc chiến đấu lan rộng khắp Nam kỳ, đặc biệt ở Mỹ Tho, Vĩnh Long, Long Xuyên, Chợ Lớn, Gia Định, Tân An, Vũng Tàu, Trà Vinh…

Dựa trên cơ sở đó, vào giữa tháng 11-1940, với tinh thần đấu tranh của quần chúng, đặc biệt là lòng phản chiến của binh lính người Việt trong quân đội Pháp, Xứ ủy Nam kỳ quyết định khởi phát cuộc khởi nghĩa toàn Nam kỳ để đánh đổ chính quyền thuộc địa và lấy lại quyền hành chính cho nhân dân. Ngày 21-11-1940, Thường vụ Xứ ủy ra thông báo cho các cấp bộ Đảng về việc phát động cuộc khởi nghĩa vào 24 giờ ngày 22-11-1940. Cuộc khởi nghĩa bùng nổ tại hầu hết các tỉnh Nam kỳ vào lúc 0 giờ ngày 22 và rạng sáng ngày 23-11-1940, khi đèn Sài Gòn tắt hoặc có tiếng súng nổ.

Tuy nhiên, Hội nghị Trung ương Đảng tại Đình Bảng (Bắc Ninh) từ ngày 6 đến 9-11-1940 đã nhận định rằng điều kiện khởi nghĩa ở Nam kỳ và cả nước chưa đủ, và đề nghị Xứ ủy Nam kỳ không nên phát động khởi nghĩa. Đại diện của Trung ương, đồng chí Phan Đăng Lưu, truyền đạt quyết định này cho Xứ ủy Nam kỳ. Tuy nhiên, khi đồng chí Phan Đăng Lưu trở về Sài Gòn, lệnh khởi nghĩa đã được ban hành cho các địa phương và không thể thu hồi. Một số cán bộ chủ chốt của Xứ ủy đã bị bắt, nhưng cuộc khởi nghĩa vẫn diễn ra theo kế hoạch.

Chỉ trong thời gian ngắn sau khi Thường vụ Xứ ủy ra Đề cương chuẩn bị khởi nghĩa (tháng 3-1940), công tác chuẩn bị khởi nghĩa được triển khai khẩn trương, và các tổ chức phản đế đã xuất hiện nhiều nơi, đặc biệt là ở vùng nông thôn. Các cuộc mít tinh và biểu tình liên tiếp diễn ra. Dân chúng đã đến đánh phá địch, bảo vệ cán bộ. Các đội tự vệ và du kích phát triển trong các xí nghiệp lớn ở Sài Gòn như Ba Son, nhà máy đèn Chợ Quán, trường Bách Nghệ…

Ở nông thôn, hầu hết các xã đã có từ một tiểu đội đến một trung đội du kích, và các cơ sở sản xuất vũ khí làm việc cả ngày lẫn đêm. Nhân dân quyên góp kim khí để đúc đạn. Các cơ sở làm bom, lựu đạn xi măng, súng thô sơ đã xuất hiện ở Móp Xanh (Tân An), Bà U (Mỹ Tho), và chùa Hòa Thượng Đồng (Rạch Giá)… Phong trào chống chiến tranh và chống bắt lính với khẩu hiệu “không một đồng xu, không một người lính cho đế quốc chiến tranh” đã lan rộng. Công tác binh vận đã được tổ chức kỹ lưỡng, với hầu hết trong số 15.000 binh lính người Việt trong quân đội Pháp đóng ở Sài Gòn sẵn sàng tham gia khởi nghĩa.

Tuy nhiên, do kế hoạch khởi nghĩa bị địch biết trước, đối thủ đã khống chế binh lính Việt ở trong trại, tước vũ khí của binh lính phản chiến. Mặc dù vậy, cuộc khởi nghĩa Nam kỳ vẫn diễn ra theo kế hoạch vào đêm 22 và rạng sáng 23-11-1940. Khởi nghĩa diễn ra đồng loạt tại hầu hết các tỉnh Nam kỳ với tinh thần quyết liệt và sức tiến công mạnh mẽ. Lực lượng vũ trang và quần chúng đã tiến công địch ở các xã, tập kích các đồn bốt, và tiến đánh một số quận lỵ, phá hủy nhiều cầu và đường. Tại một số xã, quận, chính quyền địch tan rã, và chính quyền cách mạng ra đời. Lần đầu tiên cờ đỏ sao vàng xuất hiện ở những nơi đã thành lập chính quyền cách mạng và trong nhiều cuộc biểu tình. Bọn phản cách mạng đã bị xét xử, và ruộng đất và thóc của địa chủ phản động đã được chia cho dân cày nghèo.

Vào tháng 12-1940, Xứ ủy Nam kỳ họp ở Bà Quẹo (Gia Định) quyết định rút lui khỏi cuộc khởi nghĩa để tránh tổn thất, và đưa các lực lượng còn lại xây dựng căn cứ U Minh và Đồng Tháp Mười. Cuộc khởi nghĩa Nam kỳ đã bị thực dân Pháp đàn áp, và nhiều đồng chí cán bộ kiên trung đã hy sinh. Tính từ ngày 22-11 đến ngày 31-12-1940, thực dân Pháp đã gây ra hơn 5.000 vụ bắt bớ, và hàng ngàn người đã bị xử tử, đày tù, và tra tấn một cách tàn bạo. Tuy vậy, cuộc khởi nghĩa đã thể hiện sức mạnh quật khởi, lòng tin tưởng và sẵn sàng hy sinh của nhân dân các tỉnh Nam bộ trong cuộc đấu tranh giành tự do và độc lập dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Dòng lịch sử đã ghi nhận cuộc khởi nghĩa Nam kỳ như một tiếng súng báo hiệu cho cuộc khởi nghĩa toàn quốc, là sự bắt đầu của cuộc đấu tranh bằng sức mạnh vũ trang. Cuộc khởi nghĩa thể hiện sức mạnh quật khởi, lòng tin tưởng và sẵn sàng hy sinh của nhân dân các tỉnh Nam bộ trong cuộc đấu tranh giành tự do và độc lập dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Hình ảnh chỉ mang tính chất minh họa

Khởi nghĩa Nam kỳ
Ảnh: TƯ LIỆU